Nhóm 3 - 106/A3
TÌNH HUỐNG HÌNH SỰ PHẦN RIÊNG
NHÓM 1
Vụ án 1
Lý Quốc Hòa (SN: 13/3/1984), ngụ tại 59/219 phố P, phường 6, quận 11, thành phố H quen biết em Lê Thị Thu (SN: 10/1/1990) từ tháng 12/2003. Lợi dụng Thu hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn nên Hòa dùng lời lẽ dụ dỗ, tán tỉnh. Ngày 12/2/2004, trong khi gia đình Hòa đi vắng, Hòa đa rủ Thu đến chơi. Tại lầu 1, Hòa bật phim sex cho Thu xem và sau đó nói: “Thu cưng, cho anh thực hành trên em nhé!”. Thu coi phim bị kích thích, cũng muốn tìm hiểu xem thế nào nên đồng ý để Hòa giao cấu mình. Gia đình Thu biết chuyện nên quyết liệt phản đối, cấm Thu không được đi với Hòa. Tuy nhiên, Thu “vẫn bỏ nhà theo tiếng gọi của con tim”. Hòa đã đưa Thu đi nhiều tỉnh khác nhau, “quan hệ” với Thu rất nhiều lần. Tuy vậy, sau một thời gian ngắn, Thu bắt đầu tỏ ra rất sợ Hòa vì mỗi lần giao cấu, Hòa rất thích dùng bạo lực khiến Thu chịu không nổi. Thu quyết định “dứt bỏ” Hòa và trở về nhà.
Ngày 3/9/2004, Hòa gọi điện bảo Thu đến khu vực công trường X để nói chuyện lần cuối. Tại đây, Hòa yêu cầu Thu cho mình thực hiện hành vi giao cấu nhưng Thu không chấp nhận và còn dùng lời lẽ mắng Hòa vì ở nơi thanh thiên bạch nhật thế này mà dám yêu cầu chuyện đó, bộ tưởng Thu là người bán dâm hay sao. Bực mình, Hòa tát Thu 2 cái, đè Thu xuống đất và nói: “Bộ em tưởng em còn ngon lắm hay sao!” Thu chống cự quyết liệt. Hòa liền tát liên tiếp vào mặt Thu và xé quần áo của Thu. Lúc này, anh Nguyễn Văn An và Trần Văn Bình nghe tiếng kêu cứu của Thu, đi tới thì phát hiện vụ việc. Hòa nói: “Thằng nào xông tới đây, tao sẽ bóp cổ chết con bé này”, đồng thời bóp chặt cổ Thu. Anh An từ phía sau lao tới đá một cước vô mạng sườn của Hòa làm Hòa thất kinh phải buông Thu ra. Bình kéo Thu ra chỗ khác để Thu mặc lại quần áo, An vẫn “chiến đấu” với Hòa. Một lúc sau, Bình trở lại “ứng cứu”. Sau một hồi, cả hai anh mới khống chế được Hòa, đưa đến công an giao nộp. Ngày 4/9/2004, công an quận 11 ra quyết định khởi tố Hòa về hai tội cưỡng dâm trẻ em và đe dọa giết người.
Theo anh (chị), công an làm đúng không?
Vụ án 2
Hợi (ngụ huyện Ea H’leo, Đắk Lắk) không kết hôn nhưng có con chung với con gái ông Nguyễn Hồng Thanh nên hai người có xích mích. Chiều 22-5-2011, ông Thanh chạy xe máy trên đường thì gặp Hợi đang điều khiển xe máy cày. Ông Thanh chửi Hợi, Hợi chạy máy cày đến để ở chỗ vợ đang bán dưa hấu gần đó, lấy khúc gỗ dài khoảng 80 cm rồi chạy xe máy đuổi theo ông Thanh để đánh. Hợi chạy xe với vận tốc khoảng 80 km/giờ. Do pô xe của Hợi đã được móc nên kêu to như sấm, ông Thanh phát hiện Hợi đuổi theo phía sau nên hoảng sợ chạy xe với tốc độ nhanh, vừa chạy vừa hô: “Cứu, cứu…”. Đến đoạn đường cong, ông Thanh đâm phải xe máy ngược chiều, tử vong tại chỗ.
Anh (chị) tính sao vụ này?
NHÓM 2
Vụ án 1
Vào khoảng 22 giờ ngày 2/7/2016, Đồn Biên phòng Xẻo Nhàu tổ chức tuần tra trên vùng biển thuộc huyện An Minh, tham gia tuần tra có cán bộ Công an huyện, cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự huyện An Minh. Khi thực hiện nhiệm vụ, lực lượng tuần tra đã phát hiện 4 phương tiện vi phạm vào vùng biển đã khoán cho người dân khai thác, làm hư hỏng một số dụng cụ khai thác thuỷ sản.
Tổ tuần tra đã tiến hành kiểm tra giấy tờ theo quy định, thì có 1 phương tiện bỏ đi, không chấp hành yêu cầu của Tổ tuần tra, trong 3 phương tiện còn lại chỉ có 1 phương tiện có giấy đăng ký, 2 phương tiện không có giấy tờ nên Tổ tuần tra đã mời về Trạm Biên phòng để làm việc.
Sau gần 30 phút kiểm tra, có khoảng 27 phương tiện khác đuổi theo bao vây xung quanh tàu tuần tra và dùng gạch, đá, vỏ ốc ném vào những người trên tàu tuần tra; khi tàu tuần tra dừng lại một số đối tượng nhảy sang dùng ống tuýp đánh người đồng thời khống chế bắt giữ 5 cán bộ và kéo phương tiện tuần tra chạy về hướng thị xã Hà Tiên.
Sau khi nhận được tin báo, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh và các ngành chức năng đã huy động tàu tuần tra tổ chức tìm kiếm, đến 17 giờ ngày 3/7/2016, các phương tiện đã đưa số người bị bắt giữ vào Trạm Biên phòng Pháo Đài giao trả.
Anh (chị) hãy xử lý các đối tượng trong vụ án theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Vụ án 2
Đầu năm 2010, bà Lưu Thị Ang (SN 1957, ở Thường Tín, Hà Nội) nhờ ông Đặng Văn Mạn (SN 1954) làm thủ tục thế chấp thửa đất 187 m2 để vay ngân hàng 500 triệu đồng. Đến cuối năm 2010, do không có tiền trả nợ ngân hàng nên bà Ang thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Mạn diện tích 93,5m2 đất thế chấp tại Ngân hàng với giá tiền 500 triệu đồng. Ông Mạn đã thanh toán số tiền 500 triệu đồng mua đất với bà Ang, sau đó bà Ang cầm số tiền trả cho Ngân hàng, rối lấy sổ đỏ về đưa cho ông Mạn giữ.
Một thời gian sau, bà Ang tiếp tục thỏa thuận bán cho Mạn ngôi nhà và diện tích đất còn lại với giá 1,4 tỷ đồng. Sau khi mua ngôi nhà nằm trên diện tích đất 187 m2 của bà Ang, ông Mạn vẫn cho bà Ang ở nhờ, song ông Mạn đã làm thủ tục sang tên sổ đỏ mang tên vợ chồng mình.
Đến 12/2011, vợ chồng ông Mạn bán lại ngôi nhà trên cho vợ chồng anh Nguyễn Văn Chung (SN 1980). Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thường Tín đã xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Chung.
Mua nhà xong, anh Chung đã yêu cầu bà Ang chuyển đi chỗ khác để trả lại ngôi nhà và đất, nhưng bà Ang không chuyển đi vì cho rằng chỉ bán cho ông Mạn 1/2 diện tích đất. Việc này khiến hai bên xảy ra mâu thuẫn.
Đến ngày 20/4/2012, anh Chung gửi đơn đề nghị giải quyết tranh chấp giữa anh và bà Ang. Anh Chung đã nhiều lần đến gặp và yêu cầu bà Ang chuyển đi nơi khác để trả lại nhà cho anh ta, nhưng bà Ang không chuyển.
Sau đó, anh Chung cùng một số người trong gia đình và anh em họ hàng đã đuổi bà Ang và mẹ đẻ và hai cháu ngoại bà Ang ra khỏi chỗ ở. Khi đến nhà, anh Chung nói với bà Ang: "Đã nhiều lần cháu lên đòi nhà rồi, hôm nay cô chuyển đi thì cháu vẫn thuê nhà cho cô ở", nhưng bà Ang không đồng ý. Sau đó, anh Chung và người nhà đã bê chuyển đổ đạc, tài sản của gia đình bà Ang ra khỏi nhà, để ngoài đường. Bà Ang đã đi trình báo với công an xã.
Vụ này anh (chị) giải quyết thế nào?
NHÓM 3
Vụ án 1
Tuyền vốn là sinh viên của một trường cao đẳng ngành du lịch có quen với anh Hiền, một anh chàng làm quản lý nhà hàng. Vì tình cảm đã đến mức rất sâu đậm, Hiền và Tuyền cùng dọn về một phòng trọ để sống thử nên nhiều chuyện dù biết nhưng Tuyền vẫn cho qua miễn sao là không làm tổn hại tới tình cảm của hai người.
Trong khoảng thời gian mặn nồng, Hiền đã từng lấy điện thoại quay lại cảnh ái ân của hai người rồi copy vào máy tính để lưu lại. Lúc đó, Hiền nói với Tuyền rằng, mai sau khi lấy nhau rồi những hình ảnh này là kỷ niệm giúp mình nhớ về một thời hai đứa yêu nhau thắm thiết. Lúc đó, vì tin nhau, Tuyền cũng chẳng có ý kiến gì rồi lại đắm chìm trong hạnh phúc tình yêu.
Rồi đến khi Hiền qua lại với một số cô gái khác, Tuyền quyết định chia tay. Khi nói ra lời chia tay, Hiền một mực không đồng ý. Anh chàng này tìm mọi cách năn nỉ Tuyền nên nghĩ lại và hứa sẽ từ bỏ tất cả, còn nếu Tuyền không quay lại sẽ tung tất cả những hình ảnh mặn nồng của hai người trước đây lên mạng.
Sợ những hình ảnh không hay ho bị tung lên mạng. Tuyền giả vờ đồng ý quay lại. Rồi trong một buổi tối Hiền đón Tuyền đi chơi, đến nửa đêm hai người trở về khu nhà trọ cũ. Đến tờ mờ sáng, Hiền đang ngủ rất say, Tuyền thức giấc rồi cô lẳng lặng mở máy tính với mục đích sẽ xóa hết những hình ảnh kia. Nhưng trái khoáy là lúc này Hiền đổi mật khẩu nên cô không sao truy cập được. Không còn cách nào khác, Tuyền lấy chiếc laptop cho vào túi rồi lẳng lặng ra về. Mang về nhà, cô dùng thiết bị tháo tung chiếc máy ra rồi lấy phần ổ cứng đập nát để hủy toàn bộ tài liệu bên trong rồi để phần xác máy trong nhà mình.
Đến khi thức giấc, Hiền biết Tuyền đã lấy đi chiếc máy tính nên đã gọi điện đòi lại. Tuy nhiên lúc này, Tuyền đã đập vỡ máy tính của anh Hiền.
Vụ này anh (chị) giải quyết thế nào?
Vụ án 2
Tối 16-7-2015, Trần Văn Vương (SN 1988 ở thôn Nhân Mục, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng) từ nhà đi qua khu vực nghĩa trang của thôn, phát hiện đôi nam nữ đang ân ái. Thấy cảnh “nóng”, Vương gọi điện thoại cho chú ruột là Trần Văn Toản đến cùng xem. Khi cảnh “nóng” sắp đến hồi kết thúc, Vương nảy sinh ý định lấy quần của đôi nam nữ. Trong khi đôi nam nữ vẫn mặn nồng, Vương một mình ngang nhiên đi đến xông vào lấy chiếc quần dài của người phụ nữ. Mặc dù phát hiện có người nhưng vì sợ hãi và xấu hổ nên cả 2 nạn nhân chỉ biết vơ vội quần áo còn lại che cơ thể mà không có bất cứ phản ứng gì. Nạn nhân sau đó được xác định là anh Vũ Văn Dê và chị Phạm Thị Hương là người địa phương. Sau khi cầu cứu được người nhà mang quần áo đến, anh Dê và chị Hương mới đến cơ quan công an trình báo. Theo lời khai của nạn nhân, chị Hương bị mất chiếc quần bên trong túi có 1 chiếc điện thoại di động và gần 5 triệu đồng.
Sau khi củng cố tài liệu và chứng cứ, cơ quan công an đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với Trần Văn Vương. Vương khai nhận, nghĩ rằng nạn nhân sẽ xấu hổ không dám trình báo nên sau khi gây án còn bình tĩnh về nhà nằm xem ti vi như không hề có gì xảy ra.
Vấn đề cần trao đổi là nghi can Trần Văn Vương đã phạm tội theo tội danh nào?
NHÓM 4
Vụ án 1
Bùi Thu Hương (SN:1979) là vợ anh Đào Xuân Thủy. Hai vợ chồng đã có 1 con chung 2 tuổi.
Thời gian gần đây, Hương có quen với Bùi Ngọc An (SN:1972) và họ đã yêu nhau. Ngày nào cũng vậy, sau khi hết giờ làm việc buổi chiều, Hương lại về nhà An để nấu cơm và cùng ăn, sinh họat tình dục xong rồi mới về nhà với chồng.
Biết mối quan hệ bất chính của vợ mình với An nhưng anh Thủy thương vợ nên chỉ khuyên can vợ không nên tiếp tục mối quan hệ này. Tuy nhiên, cả Hương và An đều không nghe và có lần An còn đe dọa sẽ giết Thủy để sở hữu được Hương.
Lúc 0 giờ 30 ngày 26/8/2002, tại đầu nhà E1 khu tập thể Tân Mai (Hà Nội), khi Thủy đang đi bộ, An đã dùng dao đâm Thủy từ phía sau. Thấy vậy, Đào Xuân Quân (anh trai của Thủy) đã lao vào can ngăn nhưng bị An chém trọng thương. Nghe ồn ào, nhân dân đã tập trung đưa hai anh em Thủy và Quân đến bệnh viện. Tuy nhiên, Thủy đã chết trên đường đến bệnh viện. Còn Quân do vết thương quá nặng nên phải chuyển lên bệnh viện tuyến trên điều trị. Tỷ lệ thương tật mà Quân phải gánh chịu là 45%.
Anh (chị) hãy định tội cho những người phạm tội trong vụ án này.
Vụ án 2
Nguyễn Bảo Ngọc, 22 tuổi (Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội), sau khi đi thực tập tại một bệnh viện lớn ở Hà Nội, từ cảm mến tài năng, cô đã yêu một người đàn ông lớn hơn 25 tuổi, là bác sĩ giỏi của bệnh viện. Anh có vợ và hai con nhưng đã ly hôn. Các con anh đều trưởng thành. Vợ chồng anh lại là bạn của bố mẹ cô. Vì thế, bố mẹ cô phản đối quyết liệt mối quan hệ này, nói nếu lấy anh ấy, nhất định sau này cô sẽ khổ, vì anh chỉ lợi dụng cô, không yêu cô mà chỉ yêu cái gia tài của gia đình cô vì nhà cô rất giàu có. Bố mẹ cô đã tìm mọi cách phong tỏa để cô không có cơ hội gặp gỡ anh. Bố Ngọc sẵn sàng nghỉ làm để trực tiếp lái xe đưa đón cô đến trường (tài xế riêng của gia đình bố cũng không tin), tịch thu điện thoại của cô, cắt đường truyền internet vào phòng riêng, kiểm soát chặt chẽ thư từ theo đường bưu điện. Cô sống trong gia đình mình mà chẳng khác một người tù bị giam lỏng. Cô đã xin phép bố mẹ cho ra ngoài thuê nhà ở, nhưng mẹ cô bảo: “Con muốn ra ngoài thì hãy bước qua xác của mẹ” nên cô không dám ra ngoài.
Hỏi, cha me Ngọc có phạm tội không?
NHÓM 5
Vụ án 1
Ngày 20/10/2000, Trần Văn Hiền lên tàu QL2002 của HTX vận tải Q gặp Trịnh Quốc Khánh (thuyền trưởng) liên hệ 1 tuần sau chở sắt vụn sang Trung Quốc. Một tuần sau, Hiền đến gặp Khánh nói là không có sắt vụn mà chỉ có đồng vụn và vài trăm kg động vật, bao gồm: rắn hổ mang chúa, chồn đen, vọc mũi hếch, tê tê, rùa…và hỏi Khánh có chở không. Khánh chần chừ, Hiền nói: “tôi chở hàng qua bên ấy bán, sau đó còn mua hàng đi chuyến về nữa”. Sau khi hỏi anh em thuyền viên, Khánh đồng ý chở số hàng trên với giá cước 15 triệu đồng, H trả trước 10 triệu đồng.
Ngày 27/10/2000 tàu khởi hành và 29/7/2000, tàu đến đảo C thì bị bộ đội biên phòng bắt giữ tòan bộ số hàng trên.
Anh (chị) hãy định tội cho những bị can nói trên?
Vụ án 2
Theo kết luận của VKS, từ tháng 2/2002 đến tháng 6/2002, thông qua môi giới là Bùi Hữu Phong, Nguyễn Trọng Quý (là một luật sư) đã để Lê Thành Tảo làm quen với cán bộ Ngân hàng Công thương là Nguyễn Anh Tuấn. Sau đó, Quý bảo Lê Thành Tảo, Đỗ Xuân Thái, Nguyễn Trọng Quyền, Nguyễn Văn Thoại và Bùi Hữu Phong lập hồ sơ thế chấp tài sản giả với tổng diện tích đất là 10.000m2 và một căn nhà là tài sản của Công ty TNHH Hoàng Đỉnh để vay tiền của Ngân hàng Công thương.
Nguyễn Anh Tuấn, khi đó là cán bộ tín dụng ngân hàng Công thương. Tuấn đã thẩm định, kiểm tra hồ sơ và đề xuất lên cấp trên là Hoàng Anh Việt (Trưởng Phòng tín dụng Ngân hàng công thương) duyệt cho vay hợp đồng tín dụng của bọn Quý là 8,5 tỷ đồng. Sau khi duyệt hồ sơ, Hoàng Anh Việt đã chuyển hồ sơ lên Giám đốc chi nhánh Nguyễn Văn Mạnh phê duyệt cho vay 8,5 tỷ đồng.
Trong quá trình điều tra, Tuấn khai trong khi kiểm tra, thẩm định hồ sơ, Tuấn đã không phát hiện được hồ sơ thế chấp là giả vì Quý là một luật sư nên thủ đoạn làm giả rất tinh vi.
Theo kết quả giám định của Ngân hàng Nhà nước TP.HCM cho thấy, Tuấn chưa xác định được mức độ tín nhiệm trong việc cho vay theo hình thức có tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay; khi tài sản hình thành đưa vào sử dụng, khách hàng không cam kết mua bảo hiểm; chưa thực hiện thủ tục cầm cố tại Phòng công chứng Nhà nước và chưa đăng ký giao dịch đảm bảo.
Việc điều tra, thẩm vấn các bị cáo khác cũng không xác định được cán bộ ngân hàng có hành vi giúp sức cho các bị cáo cũng như vụ lợi từ hành vi này. Tuy nhiên, khi thực hiện xong vụ vay, Quý khai có chi cho Tuấn 20 triệu đồng tiền “bồi dưỡng”. Tuấn cũng thừa nhận nhưng nói đây là tiền công của Tuấn đã tiến hành hồ sơ vay nhanh chóng.
Theo anh (chị) có ai phạm tội trong vụ này không? Tội gì? Phân tích.
NHÓM 6
Vụ án 1
Nguyễn Văn Hòa là tổ trưởng một tổ kiểm tra chi cục kiểm lâm tỉnh H. Trưa ngày 25/10/2003, nhận được tin báo là xe ôtô biển số 38H-1243 chở khỉ mốc, kỳ đà, trăn, rùa, chồn…lên biên giới phía Bắc, Hòa tổ chức kiểm tra.
Khoảng 15 giờ cùng ngày, tổ kiểm tra đã phát hiện ra chiếc xe kể trên và ra tín hiệu yêu cầu dừng xe. Lúc này, trên xe có lái xe Hoàng Tiến và chủ xe là Trần Nam. Khi nhận được tín hiệu, Tiến cho xe dừng lại và xuống xe xuất trình giấy tờ cho tổ kiểm tra. Hòa yêu cầu mở thùng xe để kiểm tra thì Tiến gọi Nam xuống, bảo là: “Họ yêu cầu kiểm tra thùng xe”. Nam đi đến nói với Hòa là: “Trên xe không có gì đâu, các anh cho xe đi thôi”. Hòa kiên quyết yêu cầu cho kiểm tra. Thấy vậy, Nam trèo lên cabin xe bảo là lấy chìa khóa mở thùng xe, thế nhưng lại rút ra chiếc mã tấu dài 60cm để khống chế đoàn kiểm tra và lệnh cho Tiến lái xe đi. Nam bảo: “Thằng nào ngon cản, tao chém liền”, đồng thời trèo lên xe theo Tiến. Lúc đó, anh Lê Văn Long là thành viên của tổ kiểm tra đang đứng cạnh xe U-oát cách đó khoảng 20m, xách súng AK đến chặn trước mũi xe của Tiến không cho đi. Thấy vậy, Nam cầm mã tấu mở cửa xe nhảy xuống đi đến phía Long. Long chĩa súng vào Nam (cách 3m) bắn 2 phát. Nam trúng đạn chết ngay.
Kết quả giám định cho thấy, Nam chết do 1 viên đạn xuyên qua ngực làm bể tim, phổi. Trong thùng xe có: 5 con khỉ mốc, 124 con kỳ đà, 43 con trăn bông, 32 con chồn mướp, 416 con rùa.
Anh (chị) thấy vụ này tính sao?
Vụ án 2
Theo cáo trạng, ngày 1/5/2007, Dương Văn Hòa, Giám đốc Công ty TNHH Thuận Thành có trụ sở tại huyện Gio Linh ký kết hợp đồng kinh tế với Xí nghiệp TGGS&PTCN Thanh Ninh mua 150 con bò Laisind để cung ứng cho các hộ nông dân tại hai huyện Hướng Hóa và Đakrông theo hợp đồng đã ký trước đó với Trung tâm Khuyến nông- Khuyến lâm tỉnh trong chương trình Dự án giảm nghèo tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, hợp đồng trên là chỉ để hợp thức hóa việc thỏa thuận mua bò riêng giữa Dương Văn Hòa và Tạ Duyên Hào đã có trước đó.
Trong quá trình mua bán bò, hai bên đã có hành vi mua bán bò không rõ nguồn gốc, đồng thời không thực hiên đúng các quy định về pháp luật thú y như tiêm phòng, nuôi nhốt cách ly trước khi nhập đàn nhằm phòng dịch lở mồm long móng (LMLM).
Trong hai tháng 5 và 6-2007, Dương Văn Hòa đã cung ứng trực tiếp số bò trên đến các hộ dân hai huyện Hướng Hóa và Đakrông đã mang mầm bệnh LMLM. Trong quá trình thực hiện dự án cung ứng bò theo dự án giảm nghèo, Nguyễn Khắc Thành và Nguyễn Ngọc Độ đã không thực hiện đúng chức năng của mình trong công tác kiểm dịch thú y theo quy định pháp luật thú y. Hậu quả đã làm bùng phát dịch bệnh LMLM trên gia súc trên địa bàn tỉnh với 6 huyện, thị xã có dịch bệnh làm 835 con gia súc bị bệnh buộc phải tiêu hủy, thiệt hại lên đến gần 7 tỷ đồng.
Vụ này anh (chị) xử lý sao đây?
NHÓM 7
Vụ án 1
Hòang Trung Quốc là một con nghiện. Tháng 5/2001, chính quyền địa phương đã đưa Quốc đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện ma túy Hà Tây với thời gian 1 năm. Tháng 5/2002, Quốc được về nhà.
Ngày 2/2/2003, Quốc đã rủ Lê Hữu Thành, Lương Quốc Xuân đi sử dụng chất ma túy. Quốc đã đưa cho Thành 50.000 đồng để Thành mua một ống nước cất và 2 xi-lanh tiêm. Sau đó, cả ba tên tìm đến nhà một người không quen mua một gói thuốc phiện giá 40.000 đồng (tiền của Quốc) mang ra bãi cỏ để pha chế và tiêm cho nhau. Sự việc bị phát hiện và cả 3 tên bị bắt giữ.
Tang vật thu được gồm 2 xi-lanh, một giấy bạc còn gói một ít chất màu nâu. Tuy nhiên, qua giám định 2 xi-lanh và chất màu nâu còn lại không phát hiện chất ma túy. Tiến hành điều tra xác định được sở dĩ có kết quả này là do chúng đã mua nhằm thuốc phiện giả.
Theo anh (chị), có ai phạm tội trong vụ này không? Tại sao?
Vụ án 12
Lê Thị Xuyến là thư ký riêng của Đổng Văn Quyên, Giám đốc Công ty thương mại tỉnh H. Hai người đã lén lút quan hệ tình dục với nhau nhiều lần tại văn phòng của Quyên. Một thời gian, Quyên chán Xuyến nên chuyển sang cặp bồ với Đào Hải Liên. Xuyến buồn quá nên kể chuyện này cho bạn gái là Nguyễn Thị Vinh nghe. Vinh tức dùm bạn và bàn với Xuyến sẽ cho Liên một bài học nhớ đời.
Vinh tìm gặp Trần Khánh (một tên giang hồ) và đề nghị Khánh làm cách nào đó cho Liên đi vào con đường nghiện ma túy thì sẽ trả công hậu hỉnh. Khánh đồng ý.
Ngày 3/2/2003, Vinh, Xuyến và Khánh tìm gặp Liên đang đi trên đường. Vinh nhảy vào đánh Liên và cả ba tên ép Liên phải đến chỗ vắng nói chuyện. Khi đó, Khánh rút dao ra nói: “Mày muốn sống phải tránh xa thằng Quyên ra. Bây giờ mày phải uống hết số bột trắng này”. Liên biết đó là ma túy nhưng vì quá sợ nên Liên đành nuốt hết số bột đó.
Do phải uống một lượng heroin quá liều nên Liên bị sốc, nằm bất tỉnh. Rất may, lúc đó có người phát hiện đưa Liên đi cấp cứu nên Liên thóat chết. Tuy nhiên, dù rất cố gắng nhưng các bác sĩ cũng không thể cứu được thai nhi 3 tháng của Liên. Đây là thai nhi của Liên và Quyên.
Anh (chị) xử lý vụ này ra sao?
NHÓM 8
Vụ án 1
Công an huyện Từ Liêm, Hà Nội đã bắt quả tang một nhóm đối tượng đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa tại phòng 512B, Ký túc xá Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội. Cơ quan công an tạm giữ 12 đối tượng, thu 4.130.000 đồng và một bộ bát đĩa. Bị phát hiện, một số đối tượng đã bỏ chạy, trong đó có Tống Xuân Trường (Sinh năm 1987, quê Hà Trung, Thanh Hoá), là sinh viên năm thứ nhất. Trường đã trèo ra lan can tầng 5, bám vào ống nước định chạy thoát thân nhưng lại bị tuột tay, rơi thủng mái tôn tầng 1, bị chấn thương sọ não, hiện đang cấp cứu tại Bệnh viện E. Công an huyện Từ Liêm làm rõ 4 đối tượng tổ chức đánh bạc gồm Nguyễn Văn Việt (Sinh năm 1987), Trần Tuấn Anh (Sinh năm 1989) ở xóm 6, Đông Ngạc, Từ Liêm; Nguyễn Hữu Trung (Sinh năm 1989) ở Ứng Hòa, Hà Nội và Trần Văn Phúc ở Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Trong số 4 đối tượng kể trên, có Trần Văn Phúc hiện đang bỏ trốn.
Theo tài liệu điều tra, các đối tượng đã sắm cho mình một bộ đồ nghề, sử dụng công nghệ cao gồm một bộ bát đĩa bên trong đĩa có gắn chíp điện tử chụp lại toàn bộ các quân vị. Sau đó hình ảnh các quân vị được truyền đến màn hình của các đối tượng. Nhờ đó, người cầm cái biết trước được các quân bài trong bát là chẵn hay lẻ để biết mà đặt cửa. Hai tên Việt và Phúc được giao nhiệm vụ xóc cái, còn Tuấn Anh và Trung làm nhiệm vụ cò mồi, gạ gẫm các nam sinh viên tham gia. Với hình thức này, bọn chúng đã thu lợi mỗi ngày khoảng vài chục triệu đồng.
Vụ này giải quyết thế nào cho đúng đây ta?
Vụ án 2
Sáng ngày 25/7/2005, ông Hồ Ngọc Hòa (sinh năm 1962), trú tại khu phố 5, phường 9, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị điều khiển xe khách loại 45 chỗ ngồi, xuất bến từ Quảng Trị đi Bình Dương. Đến địa phận huyện Bắc Bình, ông Hòa đã giao tay lái cho cháu rể là Hoàng Minh Sơn (đã có bằng lái 12 chỗ và đang đổi bằng lên xe 45 chỗ) điều khiển. Khoảng 4 giờ sáng ngày 26/7/2005, xe đến Km 1765 + 285m, quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn 3, xã Tân Phúc, huyện Hàm Tân gặp đường dốc cong, mặt đường có kẻ gờ giảm tốc, phía lề đường có biển báo hiệu đường gập ghềnh, nguy hiểm nhưng Sơn vẫn điều khiển xe chạy với tốc độ 50km/giờ. Khi đến đoạn cua gấp, Sơn bẻ lái sang trái, nhưng do trời mưa, đường trơn, xe chạy với vận tốc nhanh nên không kịp chuyển hướng về lại phần đường bên phải được. Xe đã lao thẳng xuống lề đường bên trái, tung vào mô đất nổi bên đường. Xe không vượt qua được mô đất nên bị hất tung trở lại mặt đường quốc lộ 1A, xoay ngược đầu xe hướng ngược lại, lật một vòng rồi rơi xuống lề đường bên trái theo hướng xe chạy. Hậu quả: 7 người chết, 34 người bị thương (trong đó có ông Hòa), xe hư hỏng nặng, lái xe Hoàng Minh Sơn cũng bị thương nặng.
Theo anh (chị), có ai phạm tội trong vụ tai nạn này?
NHÓM 9
Vụ án 1
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh An Giang khoảng đầu năm 2004, UBND huyện An Phú thành lập ban chỉ đạo phòng, chống dịch cúm gia cầm ở địa phương, gồm 1 đội dập dịch, 3 đội xung kích và 1 đội khử trùng tiêu độc, với 38 thành viên, trong đó là Phan Bạch Tuyết, Trưởng phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện được giao trách nhiệm Phó ban trực, trực tiếp theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, quản lý thu, chi kinh phí phòng, chống dịch ở An Phú.
Để có kinh phí hoạt động, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2004, Sở Tài chính An Giang đã cấp tạm ứng kinh phí cho Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện An Phú thành 5 đợt, với số tiền 2.450.000.000 đồng. Đến khi kết thúc chiến dịch, huyện An Phú báo cáo thanh, quyết toán kinh phí và được thanh quyết toán 4 khoản chi phí phòng, chống dịch cúm gia cầm, gồm: Chi hỗ trợ chăn nuôi 2.268.301.000 đồng, chi bồi dưỡng người tham gia phòng, chống dịch 113.580.000 đồng và chi khác 29.443.000 đồng, tổng cộng 2.589.000.000 đồng. Căn cứ kết quả quyết toán, Sở Tài chính phải tiếp tục cấp thêm 139.245.000 đồng. Theo đó, thông qua hệ thống cơ quan tài chính, Kho bạc Tỉnh và Huyện An Phú tổng kinh phí toàn chiến dịch đã được Sở Tài chính An Giang chuyển vào tài khoản tiển gởi số 946.90.00.30003 của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện An Phú tổng cộng 6 đợt, với số tiền 2.589.245.000 đồng để chi phục vụ cho công tác phòng, chống dịch cúm gia cầm.
Theo đó, ngoài việc ký 66 séc lĩnh tiền mặt cấp phát cho 66 hộ dân nằm trong danh sách có gia cầm bị tiêu hủy, được nhận số tiền hỗ trợ 560.665.000 đồng và ra 27 ủy nhiệm chi chuyển khoản chi vào tài khoản tiền gởi của 13 xã, Thị trấn trực tiếp rút kinh phí hỗ trợ cho 5.304 hộ dân có danh sách gia cầm bị tiêu hủy số tiền 1.731.270.500 đồng, Tuyết và Phết đã trực tiếp đến Kho bạc Nhà nước Huyện An Phú rút 320.994.500 đồng tiền mặt để làm kinh phí tiêu hủy gia cầm. Với số tiền này, bên cạnh việc thực chi phục vụ công tác đúng quy định của Sở Tài chính, Tuyết và Phết đã kê khống chứng từ mua vật tư phòng, chống dịch cúm gia cầm để chiếm đoạt của Nhà nước trên 101.673.810 đồng tiêu xài cá nhân. Riêng việc chi bồi dưỡng đào hố chôn gia cầm nhiễm bệnh, ngoài khoản chi thực tế 25.930.000 đồng cho 18 người tham gia làm công việc này, Tuyết đã chỉ đạo cho Phết mốc nối với Nguyễn Văn Phú (cán bộ giao thông thủy lợi Thị trấn An Phú); Nguyễn Thành Long (nông dân ấp I, xã Vĩnh Lộc); Huỳnh Thanh Phong (nhân viên Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Nguyễn Văn Hải (Trưởng trạm thú y Huyện An Phú) và đại diện lãnh đạo UBND các xã, thị trấn giả mạo các thủ tục, biên bản chiết tính, hợp đồng kinh tế, biên bản nghiệm thu, biên bản thanh lý hợp đồng do mình lập sẵn, để lập hồ sơ thanh quyết toán số tiền đào hố thêm 67.350.000 đồng.
Ngoài ra, qua quá trình điều tra, trước cơ quan Công an, Phan Bạch Tuyết và Văn Văn Phết còn thừa nhận, trong suốt thời gian quản lý, chi kinh phí phòng, chống cúm gia cầm ở địa phương đã chi nhiều khoản, như: ăn uống, tiếp khách, bồi dưỡng cho một số cá nhân, với số tiền 35.819.483 triệu đồng. Qua xác minh thực tế đã có 17 trường hợp “quan xã” thừa nhận được tiền bồi dưỡng của Tuyết và Phết.
Anh (chị) hãy xem xét hành vi của Phan Bạch Tuyết và Văn Văn Phết và một số người có liên quan (rõ họ tên).
Vụ án 2
Nguyễn Văn K thành lập một nhóm tội phạm chuyên thực hiện những vụ trộm, cướp sản trên địa bàn tỉnh Z. Nhóm của K bao gồm: Phùng Quốc L, Nguyễn Trần E và hai anh em ruột là Đinh Văn B và Đinh Văn Đ trong đó K là người cầm đầu.Trước khi tiến hành các vụ trộm, cướp tài sản chúng luôn vạch ra kế hoạch chu đáo, chuẩn bị kĩ lưỡng công cụ và phương tiện phạm tội. Sau một thời gian nghĩ ngơi để lẫn trốn công an chúng quyết định đột nhập tiệm vàng Kim Cương để trộm tài sản.
Trước khi thực hiện hành vi trộm tài sản ở tiệm vàng Kim Cương chúng đã bàn bạc kế hoạc kĩ lưỡng, K phân công L và E cắt cửa sắt và đột nhập vào trong để trộm tài sản và K sẽ canh trừng bên ngoài, hai anh em B và Đ có nhiệm vụ canh gác ở hẻm đối diện của tiệm vàng vì đường hẻm này sẽ là nơi bọn chúng tẩu thoát nếu bị truy đuổi, khi phân công nhiệm vụ K dặn dò B và Đ như sau: “Hai đứa bây không được manh động, không cần gây thương tích cho người truy đuổi bọn mình, chỉ cần cản đường không cho họ đuổi theo là được”. Đêm 24/07/2014 chúng thực hiện kế hoạch trộm tài sản ở tiệm vàng Kim Cương, bọn chúng thực hiện như kế hoạch đã bàn nhưng không may cho bọn chúng khi bị lực lượng Cảnh sát trật tự đi tuần tra phát hiện, khi bị lực lượng tuần tra đuổi bắt K, L và E chạy vào đường hẻm mà B và Đ đang chờ sẵn. Khi thấy đồng bọn bị truy đuổi B và Đ đã dùng một số gỗ và bàn ghế đã chuẩn bị sẵn văng ra đường để ngăn chặn lực lượng tuần tra, do không chú ý và nhóm trộm tài sản có chuẩn bị trước nên một đồng chí chạy xe dẫn đầu đã bị ngã, thấy đồng chí này bị ngã B và Đ đã dùng thanh sắt đánh vào người của đồng chí này gây tỉ lệ thương tật 15%.
Hãy định tội và khung hình phạt cho các bị can trong vụ án.
NHÓM 10
Vụ án 1
Vì biết được Nguyễn Kim Trí qua làm ăn, kinh doanh tại địa bàn tỉnh Bình Phước có mối quan hệ xã hội rộng rãi với nhiều cán bộ, chiến sĩ công an, nhất là công an huyện Đồng Phú, nên Nguyễn Thị Thuỷ đã đến năn nỉ nhờ “chạy” giùm cho chồng y thị là Đàm Đình Hùng (đang bị tạm giữ để điều tra về tội “cưỡng đoạt tài sản” tại Công an huyện Đồng Phú) được tại ngoại và sắp tới được xử nhẹ, mức “án treo”. Lúc đầu Nguyễn Kim Trí ngần ngại từ chối, nhưng do Nguyễn Thị Thuỷ năn nỉ nên Nguyễn Kim Trí đồng ý giúp đỡ. Hai bên thoả thuận, bước đầu Nguyễn Thị Thuỷ gởi trước cho Nguyễn Kim Trí 10 triệu đồng và sau khi có thông tin chắc chắn về kết quả, Thuỷ sẽ gửi tiếp phần còn lại 60 triệu đồng.
Sau khi được thông báo kết quả từ Nguyễn Kim Trí sau cuộc trao đổi điện thoại với anh Phạm Đức Thiện, đội trưởng CA điều tra huyện Đồng Phú. Sau khi kiểm tra thông tin do Nguyễn Kim Trí thông báo là chính xác, thì Nguyễn Thị Thuỷ tiến hành làm sẵn đơn tố cáo và nhờ người ghi lại tất cả số sơ-ri tiền 60 triệu rồi trực tiếp mang đến giao số tiền này (số còn lại theo thoả thuận) cho Nguyễn Kim Trí và liền sau đó đến cơ quan công an tỉnh Bình Phước xin được gặp Phó giám đốc Công an tỉnh để tố cáo hành vi tiêu cực của Nguyễn Kim Trí. Ngay sau khi nhận tố cáo của Nguyễn Thị Thuỷ, Công an tỉnh Bình Phước đã thực hiện khám xét và bắt khẩn cấp Nguyễn Kim Trí tại nơi cư trú của đương sự.
Vụ này thật quá bức xúc, cần giải quyết gấp!
Vụ án 2
Năm 2001-2002, Chính phủ cấp cho tỉnh P 4,5 tỷ đồng mua giống cây trồng để hỗ trợ cho đồng bào bị thiên tai. Mai Minh An là Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh P đã ký hợp đồng với Đinh Thị Thủy là Giám đốc Xí nghiệp giống cây trồng thuộc Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp thành phố H. Hai người đã bàn bạc nhau mua giống kém chất lượng của Trung Quốc với giá rẻ để hưởng chênh lệch. Trong vụ này, Xí nghiệp (đại diện là bà Thủy được hưởng 1,1 tỷ đồng), ông An được hưởng 500 triệu đồng.
Giống kém chất lượng nên cây trồng bị chết. Dù vậy, An và Thủy vẫn chỉ đạo cho cấp dưới lập hồ sơ khống để xin thanh tóan 10 tỷ đồng từ nguồn kinh phí viện trợ khắc phục thiên tai của Chính (vượt 5,5 tỷ so duyệt của Chính phủ trước đó) và được Chính phủ duyệt chi.
Hỏi ông An và bà Thủy có phạm tội không? Tội gì và phân tích.
NHÓM 11
Vụ án 1
Vào lúc 20 giờ 45 ngày 23.1.2003, gia đình anh Nguyễn Huy Tịnh (số nhà 120 Chu Văn An, thành phố Buôn Ma Thuột) chủ cửa hàng kinh doanh vàng bạc Huy Toàn (số nhà 120 Chu Văn An, thành phố Buôn Ma Thuột) vừa ăn cơm xong đang ngồi xem tivi thì bỗng thấy tiếng ồn ào ngoài cửa. Chưa kịp định thần đã thấy rất đông người (đi trên 3 chiếc xe ôtô có người vận sắc phục công an) tiến thẳng vào nhà, một số thì bao vây vòng ngoài. Những người có mặt trong nhà buộc phải ngồi im để nghe công an đọc lệnh khám xét khẩn cấp. Được biết, ông Huỳnh Nên - thiếu tá, điều tra viên Phòng An ninh điều tra tỉnh chỉ huy trực tiếp cuộc khám xét này. Người nhà của anh Tịnh đều phải cởi hết áo khoác để họ khám xét. Toàn bộ vàng nguyên liệu, thành phẩm, tiền mặt và giấy tờ đều bị thu giữ, kể cả số tài sản do cầm đồ cũng bị thu giữ luôn. Sau 10 ngày bị giam giữ, đến (2.2.2003) thì được tha về theo Quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn số 162 của CA TP. Buôn Ma Thuột, do ông Lương Ngọc Lếp - Trưởng CATP ký. Ngoài số tài sản đã trả lại, hiện nay CA vẫn còn niêm phong máy móc, các phương tiện hành nghề và 15 cây vàng 24k, Khi công an đọc lệnh khám xét khẩn cấp, anh Tịnh có hỏi vì sao lại có cuộc khám xét đột ngột này, anh nhận được lời giải thích vì cửa hàng không có giấy phép kinh doanh. Anh Tịnh xuất trình ngay giấy phép kinh doanh (số 4001170012/ HKD do UBND thành phố Buôn Ma Thuột cấp ngày 11.5.2000) vẫn không được những người thực hiện khám xét chấp nhận. Thời gian sau đó anh Tịnh cũng không nhận được bất cứ quyết định khởi tố hình sự, hay quyết định xử lý vi phạm hành chính nào. Anh Tịnh từng tìm đến các cơ quan chức năng khác, nhưng điều không nhận được sự trả lời nào.
Anh (chị) hãy giải quyết vụ này.
Vụ án 2
Ngày 5/2/2002, một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra trên tỉnh lộ 328 thuộc ấp 2, xã Hòa Bình, huyện Xuyên Mộc. Chiếc xe chở gạch mang biển số 86T-0955 đã bị lật làm chết 4 người ngồi sau thùng xe. Ban đầu người lái xe gây tai nạn được xác định là Nguyễn Văn Hiện (sinh năm 1969, trú tại Đức Linh, Bình Thuận). Sau khi TAND tỉnh BR-VT xử sơ thẩm và tuyên phạt 8 năm tù giam, Hiện đã làm đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh. Và tại phiên phúc thẩm, Hiện đã khai lại sự thật của vụ án.
Người điều khiển xe gây tai nạn là Hồ Sỹ Đức, sinh năm 1979, trú tại huyện Đức Linh, Bình Thuận. Đức là con trai của chủ xe do Hiện điều khiển. Sự thật là trên đoạn đường đi từ Bình Thuận vào Vũng Tàu, lúc đầu chiếc xe gây tai nạn do Hiện điều khiển. Nhưng khi đến địa phận Xuân Lộc- Đồng Nai, Hiện đã giao xe cho Đức, một người không có bằng lái xe điều khiển. Do tay lái yếu, xe lại bị nổ bánh sau làm xe mất thăng bằng và lật ngửa. Do mình đã giao xe cho con ông chủ lái mà con ông chủ lại không có bằng lái nên Hiện đã nhận tội thay.
Anh (chị) hãy giải quyết vụ án trên theo pháp luật hình sự Việt Nam.